Mời các bạn xem danh sách tổng hợp khổ nhục kế Chúng ta cùng bắt đầu nào
hai toà nhà tháp đôi của Trung tâm thương mại quốc tế WTC (World Trade Center) tại New York – được coi là biểu tượng cho sức mạnh kinh tế Mỹ trong thế kỷ XX – đã sụp đổ trong phút chốc sau khi bị 2 máy bay dân dụng đâm vào, và liền sau đó toà nhà Pentagon (Lầu Năm Góc) tại Arlington (bang Virginia) – trụ sở của Bộ Quốc phòng Mỹ, và cũng là biểu tượng cho sức mạnh quân sự của nước Mỹ, nằm gần ngoại ô thủ đô Washington DC, đã bị phá huỷ một phần sau vụ khủng bố tương tự.
Cả hai mục tiêu này đều bị huỷ hoại, sau khi các máy bay dân dụng Boeing do những kẻ khủng bố liều chết chiếm đoạt điều khiển lao vào như những quả bom hẹn giờ với sức công phá cực lớn. Chiếc máy bay thứ tư đâm vào khu nhà bỏ hoang tại Sansvili (bang <?xml:namespace prefix = st1 />Pennsylvania) nên không gây tổn thất nào đáng kể. Cả thế giới thực sự ngỡ ngàng trước biến cố mang tính định mệnh này.
Báo chí nước ngoài đã tốn quá nhiều giấy mực để viết về thời khắc kinh hoàng đó, nhưng đến nay còn có rất nhiều câu hỏi vẫn bỏ ngỏ, thậm chí có thể chúng ta sẽ không bao giờ nhận được câu trả lời đầy đủ và chính xác, trong đó có nghi vấn liệu đây có phải là một dạng thức của chiến lược “khổ nhục kế” quân sự để khởi động cho Chiến tranh Iraq 2 năm sau đó hay không.
Chiến lược quân sự “Khổ nhục kế” trong lịch sử thế giới
Thuật ngữ “khổ nhục kế” được bắt nguồn từ những biến cố có thật trong dã sử, chỉ việc Việt vương (vua của 1 trong những nước Việt trong Bách Việt cổ) là Câu Tiễn vì thua trận mà đành nhận làm tôi tớ cho vua nước Ngô là Ngô Phù Sai để chờ thời cơ phục thù. Trong thời gian chấp nhận làm người trông coi tàu ngựa cho Ngô Phù Sai, Câu Tiễn đã từng phải hạ mình tới mức nhẫn nhục nhận nếm phân để giúp các lương y chẩn bệnh chính xác hơn cho Ngô Phù Sai.
Sau chuỗi ngày tủi hận đó, khi được tha về nước, dù vẫn giữ ngôi vị Việt vương, nhưng Câu Tiễn hàng ngày quyết tâm không ăn quá 2 món mỗi bữa, không mặc y phục quá 2 màu, và chỉ nằm ngủ trên đệm gai, cũng như nếm mật đắng để nung nấu hận cũ và nuôi chí báo thù, vì vậy mà còn có câu thành ngữ khác là “nếm mật, nằm gai”. Chính vì vậy, “khổ nhục kế” được hiểu là sự hy sinh nhất định, với cá nhân đó có thể chỉ là tư cách hay phẩm giá, nhưng đối với quốc gia hay dân tộc thì đó thường là độc lập dân tộc hay toàn vẹn lãnh thổ…
Đến nay, nhiều người vẫn tin rằng ít nhất phải có ai đó trong giới lãnh đạo Mỹ đứng đằng sau vụ khủng bố này, tức là tội ác hoàn hảo này có thể đã được hoạch định nhằm các mục đích chính trị của ai đó. Nếu giả thuyết này là đúng, thì các nhà hoạch định chiến lược Mỹ trên thực tế cũng chưa sáng tạo ra điều gì mới mẻ cả. Lịch sử từng ghi nhận việc bạo chúa Nero (37 – 68), tên đầy đủ là Nero Claudia Caesar, người đã đích thân đốt thành Roma để vu khống những người Thiên chúa giáo, từ đó tạo cớ để đàn áp họ.
Nếu xem xét lại trong dã sử, các sử gia ngày xưa đã từng đưa ra nhiều giả thuyết về vụ cháy khủng khiếp của thành Roma (Great Fire of Rome) ngày 18/7/64 và kéo dài trong 5-6 ngày, thiêu rụi 3 trong 14 quận, 7 quận khác bị ảnh hưởng nặng nề. Theo dã sử, bạo chúa Nero vẫn thản nhiên ngồi chơi đàn Lyre và hát bài “Sack of Ilium” tại toà tháp Maixenát trên đồi Exquilin Hin, trong khi kinh thành Rome cổ kính và hàng nghìn người dân đang chìm trong biển lửa.
Trước Chiến tranh thế giới thứ hai, năm 1933 A. Hitler (1889 – 1945) đã tự thân tổ chức đốt Reichstag (toà nhà Quốc hội Đức) để kết tội các đối thủ chính trị của mình… Mới gần đây, sau 74 năm, ngày 10/1/2008 Toà án Tối cao Cộng hoà liên bang Đức đã đưa ra phán quyết thừa nhận có sự ngụy tạo do A. Hitler và H. Goering (1893 – 1946) dựng lên, và được Toà án Quốc xã thừa nhận.
Và người Mỹ cũng không hề thua kém, họ cũng đã có nhiều “khổ nhục kế” trong lịch sử hơn 300 năm lập quốc của nước Mỹ. Năm 1985, người dân Cuba nổi dậy chống lại sự cai trị hà khắc của Tây Ban Nha, người Mỹ một mặt ủng hộ người Cuba, mặt khác tìm cớ để can thiệp nhằm tranh giành quyền thống trị tại đất nước Cuba giàu tiềm năng và tìm kiếm lợi nhuận từ đảo quốc này.
Nhưng phải đến năm 1898, khi một tàu chiến Mỹ bị nổ tung tại cảng Havana, được coi là do Mỹ tạo dựng lên nhằm vu cáo việc Tây Ban Nha tiến công tàu chiến của Mỹ tại vịnh Havana, lấy đó là hành động tuyên chiến của Tây Ban Nha để có cớ bắt đầu chiến tranh. Cuộc chiến tranh này chỉ kéo dài 4 tháng, Tây Ban Nha thua cuộc và phải nhường Cuba lại cho Mỹ, cũng như mất cả quyền cai trị các thuộc địa khác như Puerto Rico, Guam và Philippines.
Từ những năm 1830, Mỹ đã âm mưu xâm chiếm nhiều vùng lãnh thổ của Mexico. Năm 1846 đến năm 1948 chiến tranh nổ ra, kết quả là Mỹ sáp nhập vùng đất Texas thành một bang mới của nước Mỹ. Năm 1911, trùm báo chí Mỹ khi đó là Herst do lo sợ bị mất các điền trang tại Mexico nên đã mở chiến dịch tuyên truyền trên báo chí, bịa đặt việc Mexico chuẩn bị tiến công nước Mỹ, nhằm buộc nước Mỹ phải tuyên chiến với Mexico một lần nữa…
Trận Trân Châu Cảng – đỉnh cao của chiến lược “Khổ nhục kế”
Xem thêm|: Danh sách 5 đỉnh sơn hay nhất
Tuy nhiên, sự kiện đáng nhớ nhất trong khởi đầu chiến tranh lại là trận chiến thắng mang tên Trân Châu Cảng (Pearl Harbor) của Nhật Bản vào chủ nhật ngày 7/12/1941, khi Hải quân Nhật Bản dưới sự chỉ huy của Đô đốc Isoroku Yamamoto (1884 – 1943), Tư lệnh Hạm đội liên hợp, đã bất ngờ thực hiện cuộc tiến công quá dễ dàng vào căn cứ Hải quân ở Trân Châu Cảng trên đảo Oahu thuộc quần đảo Hawaii.
Khoảng 360 lần chiếc máy bay chiến đấu, xuất phát từ 6 tàu sân bay của Nhật Bản, đã thực hành 2 đợt oanh kích mãnh liệt, trong lúc đó, và khoảng 60 lần chiếc máy bay khác làm nhiệm vụ bảo đảm. Nhờ đạt được yếu tố bất ngờ về chiến thuật và chiến dịch, giữ thế thượng phong trên không, làm chủ hoàn toàn bầu trời nên Nhật Bản đã khá dễ dàng trút bão lửa xuống hòn đảo nhỏ giữa đại dương.
Kết quả là Hải quân Mỹ bị thiệt hại rất nghiêm trọng: 4 thiết giáp hạm (loại tàu chiến lớn, chỉ đứng sau tàu sân bay) bị đánh chìm, 4 chiếc khác bị hư hỏng nặng, 3 tuần dương, 3 khu trục và 1 tàu thả mìn bị loại khỏi vòng chiến, 188 máy bay bị phá huỷ ngay tại sân bay, 2.402 người chết và 1.282 người bị thương. Ngược lại, Nhật Bản chịu tổn thất rất nhỏ, chỉ mất 29 máy bay và 4 tàu ngầm mini, với 65 người chết và bị thương.
Ngày nay, có nhiều nguồn tin cho rằng có thể giới lãnh đạo chính trị và quân sự của nước Mỹ đã biết trước điều này, nói cách khác là Nhật Bản chỉ đạt được yếu tố bất ngờ về chiến thuật và chiến dịch, nhưng không đạt được yếu tố bất ngờ về chiến lược.
Dường như thông tin về quá trình chuẩn bị của Nhật Bản cho Chiến dịch Hawaii (mật danh do Bộ Tổng hành dinh Nhật Bản đặt là “Chiến dịch Z”) đã bị lộ từ nhiều tháng trước, cho nên ngay sát cuộc tiến công Mỹ đã kịp thời điều chuyển các tàu sân bay thiện chiến, nhiều tàu tuần dương và tàu khu trục khá hiện đại cùng các tàu ngầm ra khỏi khu vực Trân Châu Cảng, chỉ để lại các thiết giáp hạm tuy rất to lớn nhưng khá vô dụng vì đã quá già cỗi và nặng nề. Các tàu thiết giáp hạm đang được neo đậu tại cảng, trong vùng nước nông nên việc cứu vớt người cũng như trục vớt tàu chìm khá dễ dàng.
Sau thất bại này, nước Mỹ đã trục vớt 2 chiếc bị chìm, sửa chữa lại và phục hồi sức chiến đấu của 4 chiếc bị thương khác, tổng cộng đưa 6 tàu thiết giáp hạm vào tham chiến. Nhưng do quá già cỗi và chậm chạp, chúng chỉ có thể tham gia vào các chiến dịch bắn phá các khu vực ven biển, phải nhường chiến trường chủ yếu trên biển cho các lực lượng chủ chốt của Hải quân là tàu sân bay và tàu ngầm.
Người ta còn nhận thấy rằng, việc một đoàn tàu chiến rất lớn (kích thước hợp hình kéo dài nhiều kilômét), trong hành trình rất dài ngày trên đại dương trống trải (xuất phát ngày 26/11/1941 từ Nhật Bản, tới Hawaii ngày 7/12/1941) mà không bị Hải quân và Không quân Mỹ phát hiện ra cũng là điều khó xảy ra. Ngoài ra, rất nhiều mục tiêu quan trọng khác trên bộ của Hải quân Mỹ hoàn toàn không bị tiến công như sở chỉ huy, trạm phát điện, các nhà xưởng sửa chữa, kho tàng và các cầu cảng tàu ngầm.
Theo Đô đốc Chester Nimitz, người sau này trở thành Tư lệnh Hạm đội Thái Bình Dương của Mỹ, nếu các cơ sở này bị tiến công thì có thể Mỹ sẽ phải mất tới 2 năm để chuẩn bị cho việc tham chiến.
Lý do phải “hy sinh” Trân Châu Cảng nằm trong toan tính địa chính trị của giới lãnh đạo, bản chất vấn đề khá đơn giản, vì nhân dân Mỹ không muốn dính líu và đổ máu trong Chiến tranh thế giới thứ hai, khi nước Mỹ hầu như chưa bị đe dọa vì chiến sự đang diễn ra bên kia đại dương mênh mông – châu Âu chống nước Đức quốc xã bên kia Đại Tây Dương, còn nước Nhật Bản đang tìm cách xâm lược các nước Đông Á cũng cách xa Mỹ bởi Thái Bình Dương. Trên thực tế, chiến sự dường như không liên quan trực tiếp tới bản thân họ, và họ cho rằng việc nước Mỹ chỉ cần ra tay trợ giúp các đồng minh ở phương Tây là đã là quá đủ rồi.
Trong khi đó, giới cầm quyền chính trị và quân sự cùng các tập đoàn kinh tế và tài chính Mỹ, duới sự lãnh đạo của Tổng thống F. Roosevelt (1882 – 1945), lại muốn tham gia để hưởng lợi nhờ phân chia lại thế giới và phạm vi ảnh hưởng trong không gian hậu chiến. Đến thời điểm năm 1941, nước Mỹ tuy có nền kinh tế đang trỗi dậy, nhưng vẫn chủ yếu dựa vào tài nguyên trong nước, chưa có thuộc địa hay các vùng ảnh hưởng riêng của mình. Vị thế của nước Mỹ khi đó được đánh giá như chiếc áo tuy rất đẹp, nhưng đã trở nên quá chật đối với một cơ thể đang lớn lên từng ngày.
Khi Nhật Bản bắt đầu mở rộng sự hiện diện tại Đông Á, khởi đầu bằng việc chiếm vùng Mãn Châu Lý và một số khu vực khác của Trung Quốc năm 1937, sau đó là chiếm Đông Dương thuộc địa của Pháp năm 1940, tiếp tục duy trì quyền kiểm soát bán đảo Triều Tiên, và chuẩn bị xâm lược các vùng thuộc địa của Anh và Hà Lan như Malaysia và Indonesia, điều này đã làm nước Mỹ phải cảnh giác. Để kiềm chế tham vọng của Nhật Bản, Mỹ đã từng bước hạn chế tiềm năng kinh tế và quân sự của Nhật Bản.
Năm 1940, dựa vào Dự luật Kiểm soát xuất khẩu (Export Control Act), Mỹ bắt đầu bằng việc hạn chế xuất khẩu máy bay, máy công cụ, thiết bị phụ tùng và nhiên liệu máy bay cho Nhật Bản, nhưng vẫn cung cấp dầu mỏ vì lợi nhuận quá lớn, vả lại họ cũng chưa muốn làm Nhật Bản phật ý.
Đến giữa năm 1941, Mỹ mới mở rộng sang cấm vận việc xuất khẩu dầu mỏ sang Nhật Bản, với lý do tiêu thụ trong thị trường nội địa gia tăng quá nhanh. Đồng thời với biện pháp cấm vận kinh tế, Mỹ di chuyển Hạm đội Thái Bình Dương tới Hawaii, chuẩn bị xây dựng căn cứ Hải quân mới tại Philippines.
Xem thêm|: Biệt thự biển Phú Quốc Resort & Villas, Vinpearl Phú Quốc Resort
Trước áp lực cần có nguồn nguyên liệu và nhiên liệu cho nhu cầu chiến tranh, Nhật Bản đẩy nhanh quá trình đánh chiếm bán đảo Malaysia, đồng thời tìm cách hạn chế khả năng của Mỹ (chủ yếu là bằng sức mạnh của Hải quân) can thiệp vào ý đồ của họ. Đòn tiến công phủ đầu của Nhật Bản đã thay đổi nhanh chóng cục diện chiến cuộc trong khu vực Châu Á – Thái Bình Dương. -PageBreak-
Sự kiện Trân Châu Cảng đã tái cố kết nước Mỹ trong quyết tâm tham chiến, được toàn thể nhân dân đồng thuận, và Quốc hội đã cho phép Tổng thống Mỹ tuyên chiến với phe Trục, bao gồm nước Đức quốc xã, Nhật Bản quân phiệt và Italia đồng minh. Sự tham chiến của nước Mỹ hùng mạnh đã làm thay đổi cán cân quân sự trên chiến trường Thái Bình Dương, phần nào đã đẩy Nhật Bản vào thế trận ngày khó khăn hơn.
Thay vì ngăn chặn sự can dự của Mỹ, đòn tiến công này dường như đã bị chính giới lãnh đạo Mỹ lợi dụng để tham chiến nhanh hơn. Có lẽ vì vậy mà Đô đốc Hara Tadaichi (1889 – 1964), nguyên là chỉ huy Sư đoàn tàu sân bay số 5 – một lực lượng nòng cốt tham gia tiến công vào Trân Châu Cảng, sau này đã phải thừa nhận: “Chúng ta đã giành được thắng lợi chiến thuật vĩ đại ở Trân Châu Cảng, nhưng cũng chính vì nó mà chúng ta để thua cả cuộc chiến tranh”.
Một năm sau sự kiện trên, Mỹ lại dựng lên việc tàu ngầm Nhật Bản tiến công ngọn hải đăng tại Vancuver (Canada) ngày 20/6/1942. Các nhà nghiên cứu lịch sử chiến tranh cho rằng Nhật Bản không thể mạo hiểm tiến công một mục tiêu khá vô bổ là ngọn hải đăng, nhưng Mỹ cần điều đó để lôi kéo Canada vào cuộc chiến để chia sẻ gánh nặng chiến tranh cùng với Mỹ.
Lời khai sau này của các quân nhân Nhật Bản về cuộc tiến công này rất mâu thuẫn nhau, ví dụ như trong khi loại đạn dùng để tiến công hoàn toàn không có trên tàu ngầm Nhật Bản, nhưng lại được tàu ngầm Mỹ sử dụng rộng rãi. Và năm 1964, một lần nữa người Mỹ lại sử dụng “khổ nhục kế” để dàn dựng lên sự kiện vịnh Bắc Bộ, vu cáo nước ta tiến công tàu của họ trong vùng biển quốc tế để có cớ thuyết phục Quốc hội Mỹ cho phép bắt đầu ném bom với quy mô chiến lược miền Bắc của Việt Nam.
Trong giai đoạn quyết định này, Tổng thống Mỹ đương thời là J.Kenedy tỏ ra có thái độ khá ôn hoà đối với chủ nghĩa cộng sản, thông qua cách thức thoả hiệp với Liên Xô để giải quyết cuộc khủng hoảng tên lửa tại Cuba và có ý định giải quyết Chiến tranh Việt Nam bằng con đường hay các giải pháp hoà bình hơn. Tại miền Nam của Việt Nam, Tổng thống Ngô Đình Diệm tuy vẫn phải theo Mỹ và dựa vào sức mạnh Mỹ, nhưng dường như cũng có ý định thương thuyết với Việt Nam Dân chủ Cộng hòa (DCCH) để tìm kiếm giải pháp chính trị có lợi hơn cho họ.
Một lần nữa, giới tài phiệt Mỹ quyết định sử dụng “khổ nhục kế” để đạt mục đích của mình, bằng những giải pháp rất quyết liệt, tới mức tàn bạo là ám sát hay hành quyết thông qua đảo chính quân sự. Đó có thể là lý do tại sao những kẻ nghi can sát nhân trong các nghi án trên có thể bị chết một cách rất bí ẩn (thường là bị ám sát), nhưng không bao giờ bị cáo tội hay phải đền tội một cách chính thức.
Sau khi thay thế được Tổng thống J. Kennedy và loại bỏ được Ngô Đình Diệm, Mỹ đã có nhà lãnh đạo mới hiếu chiến hơn là L.Johnson (1908 – 1973), với quyết tâm can thiệp sâu hơn vào chiến tranh Việt Nam, trước hết nhằm ngăn chặn sự thống nhất của 2 miền Việt Nam, cùng với đó là sự lan toả của phong trào cộng sản trong khu vực Đông Nam Á.
Để làm điều này, Mỹ mở chiến dịch với mật danh Desoto, đưa tàu chiến vào sâu trong vịnh Bắc Bộ để khảo sát và thu thập thông tin tình báo, đồng thời khiêu khích lực lượng hải quân của Việt Nam DCCH. Ngày 2/8/1964, tàu khu trục Maddox tiến sát khu vực Hòn Mê, thuộc lãnh hải của Việt Nam, bị các tàu ngư lôi của Việt Nam DCCH tiến công và bị thương.
Ngày 4/8/1964, Hải quân Mỹ nguỵ tạo nên sự việc tàu khu trục Turner Joy bị các tàu ngư lôi của Việt Nam DCCH tiến công, nhưng lần này là trong vùng biển quốc tế. Hải quân Mỹ đã tự hạ thấp mình, khi cố ngụy tạo chứng cứ giả dối nhằm chứng minh rằng lực lượng hải quân của đối phương nhỏ yếu hơn rất nhiều lại có thể thực hành các đòn tiến công các tàu chiến hiện đại của họ trong các vùng biển xa bờ.
Cái họ cần là có lý do để ngày 5/8/1964 bắt đầu đòn tiến công trả đũa bằng máy bay, đồng thời yêu cầu Quốc hội cho phép ném bom quy mô lớn đối với miền Bắc của Việt Nam. Ngày 7/8/1964, Quốc hội Mỹ cho phép Tổng thống L.Johnson toàn quyền hành động để leo thang chiến tranh. Chỉ mới gần đây, khi các tài liệu thuộc loại tuyệt mật được giải mật, mới làm sáng tỏ các âm mưu thực sự của giới lãnh đạo nước Mỹ trong Chiến tranh Việt Nam.
Trở lại với cuộc tiến công khủng bố ngày 11-9, chỉ vài giờ sau vụ khủng bố, các cơ quan an ninh Mỹ đã công bố danh tính của những kẻ khủng bố, với đầy đủ tên tuổi và ảnh, một hành động nhanh tới mức khó tin được. Nhưng rất tiếc là có 5 người trong danh sách này khi đó đang hiện diện tại Arab Saudi, họ không hề rời khỏi đất nước này, do đó không thể điều khiển các máy bay trong vụ tấn công đẫm máu đó được. Người ta hoài nghi rằng có thể danh sách này đã được chuẩn bị từ trước, nhưng vì lý do nào đó nên chưa kịp cập nhật cho sát thực hơn. Ngoài ra, người ta cũng không công bố đoạn băng ghi lại thời khắc máy bay lao vào toà nhà Pentagon.
Trên thực tế, tại nơi chiếc máy bay Boeing lao vào người ta không hề nhìn thấy xác máy bay, thay vào đó họ tìm thấy rất nhiều mảnh vụn kim loại rất nhỏ như bụi. Ngay cả khi máy bay được chất đầy chất nổ cực mạnh, thì vỏ máy bay cũng không dễ bị vỡ vụn ra như vậy. Loại đuya-ra để làm thân vỏ máy bay hiện đại không phải là thứ kim loại giòn như vậy, nó khác hẳn loại thép phốt-pho có cấu trúc giòn, thường được dùng làm vỏ bom hoặc đạn pháo phá nổ.
Xem thêm|: Review Làng Chài Bến Tre – Nhà hàng hải sản “Xịn Sò” tại Xứ Dừa
Hiện trường Pentagon không hề thấy xác máy bay
Để hiểu rõ các nguyên nhân sâu xa của sự kiện 11/9, cần thấy rằng trong Chiến tranh Vùng Vịnh năm 1991, nước Mỹ có lý do khá chính đáng là ngăn chặn tham vọng của Iraq, giải phóng Kuwait khỏi ách chiếm đóng theo các nghị quyết của Hội đồng Bảo an Liên hợp quốc. Tuy nhiên, các nghị quyết đó tuy mở đường cho Mỹ gia tăng ảnh hưởng trong khu vực, nhưng lại giới hạn phạm vi hành động, cụ thể là chỉ tác chiến trong lãnh thổ Kuwait nhưng không được xâm chiếm Iraq, không thể lật đổ được chính quyền của Tổng thống Saddam Hussein (1936 – 2006).
Sau chiến tranh, dư luận thế giới và chính nước Mỹ vẫn bị chia rẽ vì những lý do như việc Tổng thống Saddam Hussein có sở hữu vũ khí huỷ diệt lớn WMD (hoá học, hạt nhân) hay không, bởi vì những chứng cứ Mỹ đưa ra là chưa thuyết phục.
Phải sau vụ khủng bố 11/9, Chính phủ Mỹ mới có được sự ủng hộ cần thiết của dân chúng trong nước cho cuộc chiến trong chính đất nước Iraq, giúp lật đổ chính quyền và tiêu diệt Tổng thống Saddam Hussein, nhưng Liên hợp quốc vẫn không ủng hộ giải pháp chiến tranh. Đích thân Ngoại trưởng Mỹ khi đó là Colins Powell (nguyên Tổng Tư lệnh chiến trường trong Chiến tranh Vùng Vịnh 1991) 3 lần phải ra giải trình trước Hội đồng Bảo an Liên hợp quốc nhằm tìm kiếm một nghị quyết có lợi cho Mỹ, nhưng không đạt được sự nhất trí cho Mỹ bắt đầu chiến tranh.
Và trên thực tế, sau khi cuộc chiến kết thúc, phía Mỹ hoàn toàn không tìm thấy các bằng chứng khẳng định điều này. Như vậy, ai đó trong nước Mỹ cần có vụ 11/9 Mỹ nhằm có cớ lật đổ Tổng thống Saddam Hussein, can dự sâu rộng hơn vào Trung Đông và nguồn dầu mỏ chủ yếu của thế giới. Đồng thời với kế hoạch tác chiến, nước Mỹ đã xây dựng kế hoạch tái thiết Iraq, tập trung chủ yếu vào ngành Công nghiệp dầu mỏ, trong đó các tập đoàn lớn của Mỹ đã được trù liệu những hợp đồng béo bở nhất.
Đáng chú ý là xung quanh sự kiện 11/9 còn có những thông tin cực kỳ khó hiểu. Một số báo chí đưa tin là 8 giờ trước vụ tiến công, Cố vấn an ninh quốc gia Mỹ khi đó là bà Condoleezza Rice (sau này trở thành Ngoại trưởng) đã gọi điện thoại khuyên Thị trưởng thành phố San Francisco là Willy Braun, với lời khuyến cáo không nên bay tới New York trong ngày 11/9, nhưng lý do tại sao chưa được làm sáng tỏ?
Còn tờ báo Anh The Time viết rằng sau vụ khủng bố, những nhân thân của Osama bin Laden (và số này khá đông) không hề bị mời tới trụ sở cảnh sát để thẩm vấn hay xét hỏi gì, dường như các cơ quan đặc vụ Mỹ không hề quan tâm xem họ có thông tin gì đặc biệt về Osama bin Laden và đồng bọn hay không. Thậm chí sau đó, chính Tổng thống George Bush còn đích thân cho phép 1 máy bay tư nhân từ Arab Saudi bay vào lãnh thổ Mỹ để đưa những thân nhân của Osama bin Laden ra khỏi nước Mỹ một cách bình an. Chỉ sau khi mọi sự dường như đã an bài, nước Mỹ mới treo giải thưởng 25 triệu đô la cho việc truy tìm tung tích của Osama bin Laden, năm 2007 số tiền thưởng được tăng lên 50 triệu đôla.
Đặc biệt khó hiểu hơn cả, vào tháng 12/2001, các lực lượng quân đội Mỹ tham gia chống khủng bố tại Afghanistan đã gần như xác định rõ nơi ẩn náu của Osama bin Laden tại vùng núi Tora Bora trên biên giới giữa Afghanistan và Pakistan, nhưng rồi lại bỏ lỡ vì những lý do rất phi lý, thay vì đưa lực lượng đặc nhiệm bắn tỉa tinh nhuệ hơn để nhanh chóng tiêu diệt trùm khủng bố, thủ lĩnh của mạng lưới Al-Qaeda quốc tế thì họ lại sử dụng các đòn không kích kém chính xác và ít hiệu quả hơn.
Kết luận
Trận Trân Châu Cảng đã lùi xa 68 năm, vụ khủng bố 11/9 cũng đã qua đi được hơn 8 năm (cách nhau đúng 60 năm – thập lục hoa giáp), nhiều vấn đề liên quan đã được khép lại, nhưng vẫn còn rất nhiều nghi vấn vẫn chưa có lời giải đáp thuyết phục.
Năm 1941, khi người Mỹ đã kịp điều chỉnh học thuyết và chiến lược hải quân, từ dựa trên các tàu thiết giáp hạm sang các thế hệ tàu mới như tàu sân bay hay tàu ngầm, thì người Nhật Bản đã mắc sai lầm khi vẫn cho rằng các tàu thiết giáp hạm vẫn là niềm tự hào của Hải quân Mỹ, và đã bị người Mỹ lợi dụng trong ván cờ lớn của họ.
Sau 60 năm, tới lượt Osama bin Laden phạm sai lầm khi tổ chức tiến công vào một niềm tự hào đã qua khác của nước Mỹ. Trong lịch sử thế giới, chiến lược “mỹ nhân kế” và “khổ nhục kế” được sử dụng khá nhiều, nhưng nếu “mỹ nhân kế” thường nhằm thiết lập các quan hệ bang giao thân thiện, được thực hiện bằng phương thức khá văn minh và có mục tiêu nhân văn hơn, thì “khổ nhục kế” thường hướng tới các mục đích quyết liệt hơn nhiều, và cũng thường là bằng các biện pháp thô bạo hơn.
Có thể thấy rằng, chiến lược quân sự “khổ nhục kế” đã được sử dụng khá nhiều trong lịch sử quan hệ quốc phòng và quân sự trên thế giới, phần lớn đều nhằm phát động hay khởi đầu cho các cuộc can thiệp vũ trang hay chiến tranh phi nghĩa, phục vụ mục đích thiển cận và ích kỷ của giới lãnh đạo chính trị, quân sự cũng như giới tài phiệt.
Tóm lại, thế giới ngày nay đã có nhiều đổi khác, nhưng các thủ đoạn chính trị hay các cuộc chơi địa chính trị vẫn đang hiện diện, khác biệt duy nhất chỉ là cách thức vận dụng mà thôi, do đó vấn đề của các quốc gia và dân tộc đang phát triển là vẫn phải hết sức cảnh giác trước những thủ đoạn ngày càng tinh vi và nguy hiểm hơn
Top 3 khổ nhục kế tổng hợp bởi Blog Du lịch
Khóc ra nước mắt với những chiêu khổ nhục kế trong hôn nhân
- Tác giả: danviet.vn
- Ngày đăng: 02/13/2023
- Đánh giá: 4.65 (341 vote)
- Tóm tắt: Khóc ra nước mắt với những chiêu khổ nhục kế trong hôn nhân – Ảnh 2. Nhiều cuộc hôn nhân, vợ dọa tự tử để hy vọng chồng sợ không đi ngoại tình.
- Khớp với kết quả tìm kiếm: Bà vợ hoảng quá chạy vội đến xem chồng làm sao thì thấy ông ngã lăn quay ra đất, hai mắt thiêm thiếp như sắp chết, từ miệng phun ra một bãi máu. Bà cuống cuồng đỡ ông lên giường, định gọi cấp cứu nhưng ông bảo thôi, chỉ cần bà đừng lắm điều nữa là …
Màn khổ nhục kế trong nước cờ cuối đời của Lưu Bị: Vì đã nhìn thấu dã tâm Khổng Minh?
- Tác giả: cafebiz.vn
- Ngày đăng: 08/12/2022
- Đánh giá: 4.55 (301 vote)
- Tóm tắt: Câu chuyện Lưu Bị ủy thác con côi cho Khổng Minh ở thành Bạch Đế là một trong những giai thoại gây tranh cãi nhất thời Tam Quốc.
- Khớp với kết quả tìm kiếm: Cao tay hơn cả chính là việc Lưu Bị dặn dò con mình phải coi Khổng Minh như cha. Với chiêu bài đó, nếu Ngọa Long tiên sinh sau này quả thực có soán ngôi đoạt vị hay trở thành quyền thần thì sẽ không tránh khỏi kết cục bị người đời chế giễu, sử sách …
Khổ nhục kế: tin tức, hình ảnh, video, bình luận – Báo Thanh Niên
- Tác giả: thanhnien.vn
- Ngày đăng: 12/02/2022
- Đánh giá: 4.38 (351 vote)
- Tóm tắt: Thuê giang hồ dàn ‘khổ nhục kế’, cướp lại sổ đỏ giả. Ngày 29.12, TAND TP. Đà Nẵng mở phiên xét xử sơ thẩm ‘nữ quái’ lừa đảo, chiếm đoạt tiền tỉ rồi thuê …